
Đình Thủ Rồng thờ Tản Viên Sơn Thánh với truyền thuyết
huyền thoại vào đời Hùng Vương thứ 18 (Hùng Duệ Vương), nhà vua có hai người
con gái, người chị tên là Tiên Dung lấy chồng là Chử Đồng Tử, còn người em vua
cho xây lầu bên ngoài thành để kén rể. Một hôm có hai người là Sơn Tinh và Thủy
Tinh ở bể Nam Hải đến cầu hôn. Cả hai cùng tài giỏi, Vua Hùng không biết chọn
ai, nên thách cưới với: “Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao” và ra
điều kiện: Nếu ai đưa lễ vật đến trước thì Vua gả con gái cho. Nhờ có sách ước,
Sơn Tinh đã thực hiện đúng yêu cầu của nhà Vua và được lấy công chúa Ngọc Hoa
làm vợ. Lúc này Sơn Tinh được Vua Hùng tin dùng và có ý muốn nhường ngôi cho.
Biết tin ấy, Thục Phán là chủ bộ lạc Tây Âu đã đem quân tới đánh chiếm nước Văn
Lang để cướp ngôi. Cuộc chiến tranh Hùng-Thục xảy ra ác liệt và Tản Viên đã
được Vua Hùng cử đi dẹp loạn. Tản Viên theo đường phía Tây tiến binh qua đất
Yên Lãng-Thể Cần. Nơi đây đất đai bằng phẳng, phì nhiêu nên cho quân lính dừng
nghỉ chân. Sau này chính nơi Sơn Thánh dừng chân, nhân dân đã lập đình thờ muôn
đời hương hỏa.
Tản Viên Sơn Thánh được coi là hình ảnh tiêu biểu trong
sự nghiệp dựng nước giữ nước của dân tộc Việt. Hầu hết các ngôi đình của đồng
bào dân tộc Mường trên địa bàn các huyện: Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập đều thờ
Đức Thánh Tản Viên. Trải qua bao thế hệ, người dân Phú Thọ nói chung, và người
dân Yên Lãng nói riêng một lòng tôn kính, ngưỡng mộ vị Thánh Tản Viên Sơn. Hàng
năm dân làng Yên Lãng cùng với dân các vùng lân cận đều mở lễ hội tưng bừng để
tưởng niệm vị anh hùng huyền thoại của dân tộc ta.
Ngoài ra trong di tích còn thờ Cao Sơn, Quý Minh. Hai
người vừa là em họ, vừa là tướng lĩnh của Tản Viên đã có công dẹp giặc Thục bảo
vệ bờ cõi nhà Hùng. Đồng thời trong di tích còn thờ người có công chiêu dân lập
làng, được tôn là thành hoàng, bản thổ.
Trong năm đình Thủ Rồng có các kỳ tiệc lệ sau:
- Lễ hội ngày 15/2 âm lịch
- Lễ Tết Đoan Ngọ 5/5 âm lịch
- Lễ cơm mới 10/10 âm lịch
Lễ hội chính của đình vào rằm tháng 2. Trước kia lễ hội
truyền thống của đình Thủ Rồng được tổ chức như sau:
Ngay từ trong năm dân làng đã họp bàn về việc chuẩn bị
đội tế cũng như lễ vật cho ngày lễ hội. Đội tế gồm 12 người (Chủ tế, Đông - Tây
xướng, 02 bồi tế, 02 quan viên 01 đọc chúc, 04 chủ từ). Tuổi của đội tế trên 50
tuổi. Lễ vật phải có trâu. Mỗi làng mổ 1con trâu, trâu chọn trong xóm, do phó
lí của làng chọn ở nhà người giàu, gọi là nhà lang. Ngoài trâu ra còn có lễ xôi
gà, hoa quả.
Trâu được mổ từ ngày 14, chiều 14/2 rước ngai về cúng cáo tế (Ngai rước từ đình
ra Ngả Hai - cách đình 500m về phía Đông, đó là nơi Tản Viên dừng thuyền ngắm
núi non - rồi lại rước về, trên đường đi có nghỉ 02 lần để chạy cờ.
Đội hình đoàn rước như sau: đi đầu là đội bát âm, sau là ngai đặt trên kiệu do
8 nam thanh niên khiêng, có bố trí thêm 4 người thay. Ngai có che tàn, lọng -
do 2 người cầm, lễ đặt trên kiệu, phía trước ngai. Tiếp sau ngai 14 người nam
thanh nữ tú (07 nam, 07 nữ) chạy cờ, nam áo xanh, nữ áo vàng không có tay, có
chít đai lưng và đai đầu, khi kiệu dừng thì cầm cờ chạy xung quanh kiệu, không
có múa cờ. Tiếp sau cờ là chủ tế và quan viên, chủ từ. Sau cuối là dân làng.
Đến Ngả Hai làm lễ cúng. Trải chiếu đặt lễ gồm xôi, gà, hoa quả, bánh (chưng
vuông nhỏ, bánh ốc từ gạo nếp để cả hạt ngâm gạo, gói bánh rồi đồ; bánh uôi còn
gọi là bánh vặn làm từ gạo nếp xay, nhào bột nặn xoắn vào nhau, gói lá chuối
rồi đồ. Bánh chưng thì xếp lẻ, bánh ốc và uôi thì xâu thành xâu tròn). Bánh này
sắp mâm riêng. Đây là lễ đón thánh.
Đón thánh về rồi cáo tế cúng thánh. Sau tổ chức rước văn,
bằng kiệu đón thánh, đến nhà người viết văn. Đội hình trên vẫn duy trì nhưng
không có chạy cờ lúc đi, khi về chạy cờ 2 hoặc 3 lần tùy theo quãng đường. Văn
để trên ngai. Đến đình chuyển văn vào trong đình đặt ở án gian dưới thượng
cung.
Sáng 15/2, sớm phải rước ván (cỗ lễ, gồm 06 ván xôi,
rượu, gà; 01 ván xôi trứng gồm 22 quả trứng luộc chín, 03 quả trứng sống ) ở
khu được phân công về đình. Rước bằng 06 bàn xà, mỗi bàn xà do 1 nam, 1 nữ
khênh, cử đại diện đi đầu. Đến cổng đình, tất cả ra đón, làm lễ trao - nhận,
kiểm duyệt đồ lễ. Rước vào đình đặt tất trên thượng cung, ván trứng để giữa, 6
ván còn lại xếp xung quanh theo hàng bậc. Về đình làm tế chính. Chủ tế quần
trắng - áo đỏ, mũ đỏ, đai đỏ, hài đỏ. Thành phần quan viên, nam thanh nữ tú,
gồm 7 nam áo quan xanh, mũ đen, hài đen, đai đen; 7 nữ, trang phục áo quan
vàng, mũ vàng, đai vàng, hài đỏ. Kiểu áo tế quan có tay, quần trắng.
Vật dụng tế: Chiếu chải làm 05 chiếu từ ngoài vào trong.
Chiếu thứ 5 là chiếu thánh, không ai được đứng. Chủ tế và quan viên từ chiếu
thứ tư trở ra. Chiếu nọ sát chiếu kia, không chồng lên nhau, chiếu có chữ Thọ
đỏ.
Sau khi tế đủ 3 tuần, chủ tế hóa chúc ở chiếu 5. Khi hoá
chúc văn, tế quan phải cầm chúc đang được hoá trên tay không được để cho rơi
xuống đất. Nếu để chúc chưa được hoá mà rơi xuống đất thì dân làng năm đó không
được may mắn vì để lời cầu của 1 năm rơi vãi. Hoá chúc xong chủ tế, bồi tế, các
chấp sự vái 4 vái rồi đi ra, buổi tế lễ kết thúc. Sau đó các cụ hương lão,
hương lý, chức sắc, kỳ mục, nhân dân lần lượt vào làm lễ.
Hội đình Thủ Rồng với các trò chơi đặc sắc của người
Mường như: ném còn, bắn nỏ…
- Ném còn là trò chơi tín ngưỡng hấp dẫn của trai gái
trong dịp hội làng. Quả còn to bằng bàn tay trẻ nhỏ, được khâu bằng nhiều múi
vải màu, bên trong nhồi thóc và hạt bông. Quả còn có các tua vải nhiều màu
trang trí và có tác dụng định hướng trong khi bay. Sân ném còn là bãi đất rộng,
ở giữa chôn một cây tre (hoặc vầu) cao trên đỉnh có vòng còn hình tròn (khung
còn), khung còn một mặt dán giấy đỏ (biểu tượng cho sức mạnh của mặt trời), mặt
kia dán giấy màu vàng (biểu tượng cho mặt trăng). Mở đầu cuộc chơi là phần nghi
lễ, ông từ dâng hai quả còn làm lễ giữa trời đất, cầu cho bản làng yên vui, mùa
màng tươi tốt, nhà nhà no ấm. Sau phần lễ ông từ cầm hai quả còn đã được ban
phép tung lên cho mọi người tranh cướp, khai cuộc ném còn. Sau đó các quả còn
khác của các gia đình mới được tung lên như chim én. Người chơi đứng đối mặt
với nhau qua cây còn, ném quả còn lọt vào vòng còn trên đỉnh cột là người thắng
cuộc. Trước khi khép hội, ông từ còn rạch hai quả cầu thiêng lấy hạt bên trong,
tung lên để mọi người cùng hứng lấy vận may mắn, vì nó đã được truyền hơi ấm
của những bàn tay nam nữ (âm - dương). Ném còn làm cho người trong cuộc hào
hứng, người đứng ngoài reo hò cổ vũ khiến không khí cuộc chơi rất sôi nổi, hấp
dẫn. Ném còn là trò chơi không những thu hút nam nữ thanh niên mà nhiều người
lớn tuổi cũng rất thích.
- Bắn nỏ là trò chơi tiêu biểu cho tinh thần thượng võ
của đồng bào các dân tộc. Trong những lần đi rừng họ thường mang theo nỏ để săn
thú do đó từ các cụ già đến thanh thiếu niên đều sử dụng rất thạo. Những người
tham gia bắn nỏ thường chuẩn bị rất kỹ lưỡng từ việc chọn vật liệu làm nỏ, căng
dây, vót tên và tập các động tác bắn cho thật thuần thục. Đối tượng của trò
chơi này là những thợ săn có tiếng, là những thiện xạ dùng nỏ săn bắn chim thú
cho gia đình. Cũng có một số tay nỏ là những thanh niên khoẻ mạnh, ham thích
môn bắn nỏ nhằm luyện tập sức khoẻ và bảo tồn môn thể thao truyền thống. Trò
chơi bắn nỏ được tổ chức trên bãi đất rộng. Lợi thế của trò chơi này là những
người chơi ai cũng được sử dụng nỏ riêng của mình để quen với tay nỏ mà bắn
trúng đích và được thử để chọn những tư thế, thử nỏ theo kinh nghiệm riêng của
mình. Người thắng cuộc là người có nhiều mũi tên bắn trúng đích nhất.

Ngày nay, lễ hội truyền thống đình Thủ Rồng tuy chưa thật
đầy đủ như trước đây, hội làng tuy chưa tổ chức được các diễn xướng đặc sắc của
người Mường như: diễn tấu cồng chiêng, đâm đuống, hát rang hát ví… nhưng bên
cạnh phần lễ thể hiện sự tôn nghiêm thành kính đối với các vị thần của làng
mình, hội đình Thủ Rồng còn có các môn thể thao như: bóng đá, cầu long, kéo co…
không chỉ thu hút được đông đảo nhân dân trong vùng mà còn thu hút được nhân
dân các vùng lân cận.
Đây là không gian văn hóa để bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa phi vật thể đặc sắc của đồng bào dân tộc Mường như hát rang, hát ví,
diễn xướng cồng chiêng và các trò chơi dân gian như ném còn, bắn nỏ, đu trà…
Những giá trị văn hóa phi vật thể ấy cùng với ngôi đình là minh chứng cho một
vùng quê giàu truyền thống văn hóa nằm trong hệ thống các di tích văn hóa thời
kì Hùng Vương dựng nước.