Đình Tế còn gọi là đình Con Voi, vì đình lấy tên làng Tế
để gọi tên đình. Còn tên "Đình Con Voi" do tên gọi phổ thông của dân
làng vì trước cửa đình ở hai bên có đắp nổi hình đôi voi phục. Đình Con Voi nằm
giữa làng Tế, đình được xây dựng trên một khu đất cao, rộng khoảng 1500m2. Phía
Đông là núi Tản, phía Nam là dãy núi Lưỡi Hái, phía Bắc là núi Ba Chi, phía Tây
là núi Đá vôi. Đình hướng về núi Tản (hướng Đông Nam), cách dòng chảy sông Đà
10km, đình tựa lưng vào núi Ba Chi. Đình Tế được xếp hạng cấp tỉnh tại quyết
định Số 203/QĐ-UB ngày 19/1/2001 của UBND tỉnh Phú Thọ.
Đình Tế thờ Tản Viên Sơn Thánh thời Hùng Vương, ngoài ra
đình còn thờ các vị thần: Đức Mẫu Mẹ (sinh ra Tản Viên Sơn), Ngọc Hoa công
chúa, Đức chúa ngàn Ba Chi thành hoàng bản thổ, Chúa ngàn núi Lưỡi Hái, Quan
lang (Chăn Tẩy Ty Chiêu Thảo).
Hành trạng của vị thánh Tản Viên như sau: Đời Hùng Vương
thứ 18 là Hùng Duệ Vương đóng đô ở Bạch Hạc - Việt Trì đặt tên nước là Văn
Lang. Vua là một người đại lược hùng tài, thông minh, mẫn cán, thừa hưởng cơ đồ
của các vua trước, mà tiếp tục bồi đắp rất thịnh. Trong thì sửa sang văn đức,
ngoài thì phòng bị biên thuỳ, nhằm giữ việc yên dân làm trọng, thời bấy giờ ở
động Lăng Sương (xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy nay) sinh ra Tản Viên trong
một gia đình nghèo khó, hàng ngày phải lên núi Tản hái củi để bán lấy tiền nuôi
mẹ, nuôi thân. Một hôm lên rừng gái củi gặp tiên ông cho gậy thần để cứu giúp
muôn dân. Lại nói về triều Hùng Duệ Vương theo ý trời mà hết. Hùng Dụê Vương
sinh được 20 hoàng tử và 6 công chúa nhưng đều mất sớm chỉ còn 2 công chúa Tiên
Dung và Ngọc Hoa. Tiên Dung kết duyên với Chử Đồng Tử, còn Ngọc Hoa vua cho kén
để cầu hiền. Tản Viên đã đua tài với Thủy Tinh và chiến thắng lấy được công
chúa Ngọc Hoa (theo truyền thuyết Sơn Tinh- Thuỷ Tinh) Duệ Vương liền truyền
ngôi cho con rể là Tản Viên Sơn Thánh. Bấy giờ Bộ chủ Ai Lao là Thục Phán, cũng
là tông phái họ Hùng, nghe được tin ấy Thục Phán cùng các nước láng giềng, đem
quân tiến đánh để giành ngôi.
Thư từ biên ải báo về, Hùng Duệ Vương vô cùng lo lắng
liền cho gọi Tản Viên bàn kế đánh giặc. Tản Viên liều triệu vời các tường tài
và mang binh đi tuần tiễu các đạo để phòng giặc, đồng thời điều binh đốc xuất
các mặt mà đánh. Đi đến đâu được dân trang hưởng ứng. Đến trại Cự Thắng, Tản
Viên thấy địa thế đẹp như rồng chầu hổ phục, dưới chân là những dòng suối nhỏ
chảy bao quanh, bốn phía đều như thành luỹ, che chắn bởi những rặng núi cao,
rừng rậm. Tản Viên bèn truyền lệnh dựng doanh sở tập hợp binh sỹ chuẩn bị đánh
Thục. Từ đây Tản Viên xuất trận và đã chiến thắng trở về. Nhân dân vui mừng
chào đón Tản Viên, Tản Viên truyền lệnh mở hội khao quân và dân bản ăn mừng
chiến thắng. Sau đó Tản Viên ra bái tạ nơi Thánh Mẫu đặt chân sinh ra mình
(tương truyền rằng nơi đây Thánh Mẫu đi hái củi, ướm chân mình vào phiến đá về
có thai sinh ra Thánh Tản, hiện còn phiến đá in chân người tại đây. Nhân dân
lập miếu thờ gọi là miếu thờ (gọi là miếu Thánh Mẫu).
Truyền tụng về Tản Viên Sơn Thánh được nhân dân trong
vùng lập đền thờ ghi dấu sự nghiệp lớn của Tản Viên trong công cuộc dựng nước
và giữ nước. Sau đó nhân dân dựng đình thờ và tôn Tản Viên Sơn là thành hoàng
và thờ tại đình gọi là đình Tế…
Đình Tế được xây dựng sau khi làng hình thành với tài
khai phá, chiêu dân lập ấp của các dòng họ Bùi - Lã - Nguyên - Đinh. Họ đều là
dân tộc từ Cao Phong (Hòa Bình) đến đây sinh cơ lập nghiệp. Sau cách mạng tháng
Tám thành công, Đình Con Voi là nơi cán bộ cách mạng tước đoạt và tuyên bố giải
tán chính quyền phong kiến đế quốc, thiết lập chính quyền cách mạng. Đình Con
Voi có vinh dự là nơi bầu cử quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà, tại xã Hưng Thắng cũ (nay là xã Tất Thắng).
Hội xuân đình Tế tiệc chính vào ngày 8 tháng Giêng: Phần
lễ được dân làng dâng hương, hoa, vật phẩm tỏ lóng thành kính cầu mong Đức
Thánh Tản ban phúc lành cho muôn dân mạnh khoẻ, làm ăn phát đạt. Phần lễ thì
như vậy còn phần hội có nhiều trò chơi đa dạng, phong phú như: ném còn, hái úi,
kéo co, chọi gà vật dân tộc, đánh đu, hát rang, hát ví, hò đu….
Ném đúm: (hay còn gọi là ném còn): Vào ngày hội, người ta
chọn 1 điểm làm bãi còn, ở giữa tròng cây hóp hoặc tre. Vòng này được bịt giấy
trắng hay giấy màu. Quả đúm đầu tiên xiên qua lần giấy dó và bay qua vòng. Trai
gái hai bên, tung quả đúm cho nhau qua vòng tre, vừa tung vừa hát đối đáp giao
duyên. Có khi trai gái tung còn không có vòng tre và ném thẳng cho nhau bắt.
Chơi còn, là hình thức chơi vui ngày xuân của nam nữ thanh niên các dân tộc
miền núi, nhưng Phú Thọ một số làng người kinh cũng mở hội ném đúm.
Quả đúm thường chỉ nhỏ như quả trứng ngỗng hay quả cam,
đặt vừa lòng bàn tay. Loại hình tròn còn gọi là cầu hay văn vẻ hơn là quả tú
cầu; cầu vuông còn đính vải màu ở bốn góc. Phần đuôi đúm không chỉ là vật trang
trí cho đẹp mắt mà còn để quả đúm định hướng khi bay. Quả đúm vào cũng bọc bằng
vải nhưng bên trong có thể là cát, mạt cưa cám hay thóc ở trong.
Kéo co: Kéo co là một trò chơi tập thể, vui khoẻ rất phổ
biến ở hội làng. Trò chơi này không đòi hỏi nhiều công phu luyện tập như đấu
vật, không đòi hỏi sức lực cường tráng và sự tranh cướp quyết liệt như cướp cầu
đánh phết mà cũng không gây thương tích cho thân thể như trò đánh quân. Kéo co
là một trò chơi rất giản dị và đầy tiếng vui cười, ở Phú Thọ thường chơi trò
kéo co bằng dây song nhưng cũng có nơi kéo dây tre. Người chơi chia làm hai
bên, thi nhau kéo sợi dây song dài khoảng 20m về bên mình. Quãng giữa dây có
buộc túm vải màu đỏ làm chuẩn; chuẩn đó đặt ngang với vạch vôi hay vòng vôi
trên mặt đất. Khi kéo chuẩn vải sẽ di chuyển vạch vôi và nhích về phía bên nào
kéo khoẻ hơn. Cái vui ở đây là bên thắng cuộc thường bị ngã vì bên thua buông
tay và đã ngã là ngã "chổng cẳng", người nọ đè lên người kia.
Đu quay: Đu gồm có 4 cột gỗ, 2 quá giang, 1 trục quay.
Thường được thiết kế 4 người hoặc 8 người chơi một lúc, thường là từng đôi nam
nữ vừa đu vừa hát đang hoặc tình tự với nhau.
Đu trà và hò đu: Đu trà gồm có 4 cây tre chọn 4 góc (tùy
theo có thể làm cao hay thấp). Hò đu của đồng bào Mường là một loại hát thơ lục
bát, đây là loại hò giao thế (đối đáp giao duyên) được tổ chức vào mùa xuân.
Giữa một khoảng đất rộng, người ta dựng một cây đu gọi là đu xe hay đu quay
(còn gọi là đu cọn vì nó giống như hình cái cọn guồng nước của đồng bào miền
núi), gồm 4 cột với 2 cột cái cao khoảng 4,5m và 2 cột con cao khoảng 4 m; trục
đu (còn gọi là cối đu) dài khoảng 3,5m đến 4 m, đường kính khoảng 0,2m. Đu được
các thợ mộc cừ khôi tạo dựng (ở đồng bào Mường vùng Thanh Sơn làm đu bằng tre
và gọi là đu trà; đồng bào Mường vùng Yên Lập làm đu bằng loại gỗ tốt); guồng
quay của đu tạo hình lục giác, có 6 quang đu để cho 3 đôi nam nữ cùng ngồi; có
càng đu để cho 2 người nam giới khỏe mạnh thay nhau đạp cho đu quay đều. Đu
được coi là sân khấu để cho các đôi trai gái, nam nữ thể hiện sự tài tình, tinh
túy, linh hoạt trong lối hò giao thế: “ Khen ai khéo dựng đu này; Để cho trai
gái chơi ngày chơi đêm”.
Trước khi vào hò đu, các bản đăng ký để ghép đôi hò đu với nhau, trong số 6
người dự thi thì chia làm 3 cặp, mỗi cặp một nam một nữ. Một điểm khác với đu
bay là ai đã lên đu cọn là phải hò (hát). Thường thì bản nào đứng chủ thì là
nữ, khách mới là nam; phải là người vừa giỏi việc làng, đảm việc nhà, vừa có
tài ứng khẩu nhanh, thông minh, hoạt bát, lanh lợi. Sau khi bắt thăm các cặp, 3
đôi nam nữ ngồi lên đu và đối diện nhau theo từng cặp. Chuẩn bị xong, trưởng
bản gõ một hồi trống, dứt tiếng trống thì cuộc hò đu bắt đầu, theo thứ tự lần
lượt đôi số 1 đến đôi số 3. Người đạp đu cho đu quay với tốc độ vừa phải. Vào
cuộc thi, chủ nhà là người nữ được quyền đưa ra những câu hỏi, câu đố để người
nam trả lời và người nam cũng có quyền đưa ra những câu hỏi, câu đố để nữ trả
lời. Các vế đối thường là những câu hò về quê quán, gia cảnh, việc làm, tính
nết, quan hệ…Hò đu không có bài bản, trình tự được sắp đặt sẵn mà phụ thuộc vào
chủ thể hỏi về vấn đề gì…. Lối hát thơ trong hò Đu chủ yếu là thể thơ lục bát
hoặc lục bát biến thể với nghệ thuật ẩn dụ, ví von, so sánh như:
Sông ngân chưa kịp bắc cầu
Ruột tằm chín khúc héo sầu như vo
Thi hò đu sẽ loại trực tiếp, người thắng cuộc sẽ đi tiếp
vào vòng sau. Nghiên cứu về tính chất và kết cấu âm nhạc thì hò Đu chính là hát
Ví đối đáp giao duyên, dùng cây đu làm sân khấu, cũng như hò sông nước họ dùng
thuyền hoặc có những tộc người đợi phiên chợ để được hát đối đáp và chọn bạn
đời trăm năm.
Lễ hạ điền (lễ đánh cồng cầu lúa): Lễ hạ điền được tổ chức vào vụ mùa hàng năm,
sau khi dân làng đã bừa ruộng ngẫu và chuẩn bị cấy. Dân làng tuỳ tâm góp lễ.
Khi xin được âm dương (hai đồng tiền 1 sấp 1 ngửa). Sau đó 1 thanh niên chưa
vợ, gia đình không có tang vác cây nêu (hoặc 1 cây tre hay hóp) và một cái cọc
ra ruộng. Sau đó 1 nữ thanh niên chưa chồng cấy quanh cây nêu. Tục truyền rằng
sau khi hạ điền 3 hôm dân làng mới được cấy. Khi hạn hán, thầy mo phải làm lễ
cúng gọi Vía lúa, lời kêu cầu rất tha thiết:
“Lúa ở Mường trời
Lời Mường con kêu con gọi
Lúa về Mường này làm giàu làm có
Bao nhiêu khốn khó bay về Mường xa
Hỡi lúa nếp, lúa tẻ
Nghe lời Mường ta kêu gọi
Bông con vừa bằng vòi hái
Bông cái vừa bằng đuôi con trâu
Lúa về đây làm giàu cho dân bản
Lúa về đây làm cho dân bản no lòng
Lúa ơi, lúa à, lúa ơi, lúa à…"
Như vậy, lễ hạ điền với nghi thức cầu thánh thần được cử
hành nghi thức ở đình. Còn nghi thức cầu mùa thì cử hành ngay thực địa trên một
thửa ruộng định sẵn, mặc dầu chỉ là những hành động tượng trưng. Cây nêu tiêu
biểu cho cây vũ trụ nối liền trời - đất, âm - dương giao hoà sinh sôi. Người
xuống cấy lúa mở đầu thời vụ dù là đàn ông - dương tính hay đàn bà - âm tính
cũng đều mang tính tượng trưng cho sự sinh sôi (mẹ lúa) hoặc sức mạnh của nguồn
sinh sôi (chúa đồng, chủ ruộng, lão ông hạnh phúc vẹn toàn). Lễ hội đình Tế là
lễ hội đặc trưng của đồng bào dân tộc Mường được đông đảo nhân dân và du khách
gần xa tham gia hưởng ứng, tâm thành về với cội nguồn mong cầu nhà nhà ấm no,
quốc gia hưng thịnh.