Đình Cả là một ngôi đình có dấu ấn sâu sắc với nhân dân
xã Tất Thắng và quanh vùng. Từ trước đến nay, đình Cả luôn là địa điểm sinh
hoạt văn hoá của dân tộc Mường nói riêng và các dân tộc trong sinh sống trên
địa bàn huyện Thanh Sơn nói chung.
Đình Cả thờ đức Thánh Tản Viên Sơn và các Mỵ Nương
công chúa con của Vua hùng thứ 18 đã có công khai dân, lập ấp hình thành
bản Mường nơi đây, năm 1853 Đình được Vua Tự Đức sắc phong cho dân làng
thờ cúng và mở hội. Di tích nằm trong hệ thống di tích vùng sông Đà,
hướng về núi Tản (Ba Vì) thờ Tản Viên, người anh hùng dân tộc thời dựng nước.
Đình Cả, xã Tất Thắng không có tư liệu văn bản, bia kí ghi lại năm tháng xây
dựng đình. Song qua thư tịch, truyền thuyết và chuyện kể dân gian, thì sau khi
Tản Viên đánh giặc Thục đại thắng trong cuộc nội chiến Hùng- Thục trở về doanh
sở cùng binh sỹ và dân bản mở hội ăn mừng rồi trở về cung sở tại chân núi Ba Vì
(đền Đông cung nay). Nhân dân quanh vùng đều lập đền thờ, miếu thờ, thờ vọng để
ghi dấu nhân vật lịch sử thời Hùng Vương là Tản Viên Sơn Thánh. Năm 1995, Đình
Cả được xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hóa cấp tỉnh.
Đình Cả bắt nguồn từ quán nhỏ cùng với đền miếu dọc dải
sông Đà, hướng về núi Tản (Ba Vì). Sau đó nhân dân đông, làm ăn thịnh đạt mới
xây dựng miếu thờ (cách đình Cả hiện nay 150 m). Khoảng thế kỷ XV - XVI, nhân
dân xây dựng đình làng (đình Cả hay đình Chiềng) và tôn Tản Viên là thành hoàng
làng rước thờ tại đình. Ngôi đình được xây dựng trên thế đất cao giữa trung tâm
dân bản, "xóm Chiềng gần xóm Đình, xóm Giữa, xóm Nương, xóm Cấm (trước là
nơi rừng rậm không ai dám vào), xóm Đồn (nơi quan lang xây đền ở đó).
Đình Cả dựng theo hướng Nam, hướng về núi Tản, kiến trúc
kiểu chữ Đinh ( J ) 5 gian đại bái và 2 gian hậu cung. Đại đình cấu trúc 4 mái
đao cong, chính giữa nóc đại đình có rồng chầu mặt nguyệt, 2 đỉnh bờ nóc phù
điêu hai con ly đang tư thế phi về chính giữa. Trước thượng cung có xà rồng
chạm trổ long mã, mỗi bước cốn mê hậu cung, bức cốn nách đại đình cùng với đầy
đủ đầu bẩy đều chạm trổ với nhiều đề tài phong phú. Xung quanh xây tường bao
loan khuân viên đình, trước đình có 2 cột tán cao và 2 cửa cùng cánh phong 2
bên rất bề thế uy nghiêm. Khuôn viên đình tiếp giáp với đường làng, phía Đông
đình cách 100m hiện còn một giếng cổ, tương truyền là nơi Tản Viên cho đào để
lấy nước nuôi quân khi dừng chân tại đây, đồng thời dân làng dùng nước giếng
trong sinh hoạt (đánh dấu sự quần cư của người Việt - Mường).

Đình Cả có ý nghĩa giáo dục truyền thống dựng nước và giữ
nước của dân tộc. Đình còn giữ được một số tài liệu, hiện vật có giá trị lịch
sử, văn hoá. Đồng thời đình Cả hiện còn bảo lưu được những phong tục tập quán
cổ truyền, mang bản sắc văn hoá dân tộc đậm nét.
Xuân thu nhị kỳ, đình Cả có 3 kỳ tiệc lệ trong năm:
Ngày 15 tháng Giêng: Lễ Thượng nguyên, làm lễ thánh, ngày
này tổ chức hội ném còn, không rước sắc.
Ngày 12 tháng 6 (âm lịch): Mừng công Tản Viên thắng trận.
Ngày 12 tháng 11 (âm lịch): Ngày sinh của Thành hoàng và
là ngày tổng kết năm cũ chuyển sang năm mới (hội mùa trong năm). Phần lễ vật
phụ thuộc hàng năm đóng góp theo đinh gồm: Lễ hàn hâm: Xôi, gà, rượu (rượu
mộng) hiện còn bình thờ tại đình; lễ lớn: bò, trâu, lợn gọi là xính lễ; 12 bát
chè hoa (gạo rang thành bông trộn mật); 1 đĩa cơm nén ( gạo tẻ) đặt trên đĩa
cơm nén 1 con cá trôi hoặc cá thiểu.
Tế lễ tại đình Cả 3 ngày lễ, còn rước sắc ra đình từ sớm
11, rước từ nhà ông từ ra đình, đến chiều 12 lại rước về nhà ông từ. Sau khi
rước sắc và tế lễ, nhân dân mở hội làng 3 năm 1 lần với các trò chơi như: đánh
trống đồng, múa mỡi, ném còn, hát đối (hát ví), múa trống đu (trống đùa), giã
đuống, đánh các bài cồng chiêng dân tộc Mường...
Múa Mỡi: Múa Mỡi của đồng bào Mường Tất Thắng cũng như
của đồng bào dân tộc Mường Thanh Sơn, Yên Lập gồm những tiết mục: Múa hương với
một nam múa, rồi cầm tay nữ mời vào múa thành cặp; múa bắn cung (mũi tên là que
hương cháy đỏ), người con trai bắn mũi hương vào người con gái nào, người con
gái sẽ múa thành cặp với người chàng trai; Múa khăn đai: Một cặp nam nữ, khăn
dài đầu có tua, khăn cầm tay hoặc quàng qua cổ, cùng múa; Múa gươm, múa roi:
Tiết mục này chỉ có nam tham gia, cũng chia thành cặp và càng nhiều người múa
càng đẹp, càng rộn ràng. Gươm và roi dập vào nhau theo tiếng "cắc"
của trống và tiếng "cộc" của ống theo tiết tấu nhịp ba: "tung
tung cắc", "tinh tinh cộc"... Múa càng rộn ràng, nhịp trống và
ống càng dồn mau theo tiết tấu "tung tung cắc, tung tung tung cắc!",
"tung cắc, tung tung cắc".
Múa roi và múa gươm vừa dứt, trai gái chuyển sang cuộc
hát ném còn ngay trên sân múa, không khác phần hát đúm của Xoan. Sau vài cặp
ném còn, lại tiếp tục múa. Ngoài hát và múa, người ta còn tổ chức các tiết mục
múa phụ cho thêm vui như căng dây thừng rồi bò qua hoặc nhảy dây.
Hội ném còn: Hội ném còn tổ chức trước cổng đình là cả
bãi đất rộng. Chính giữa đối với cổng đình, dân làng trồng một cây tre đường
kính 15 cm, cao 13m, trên ngọn tre có buộc chiếc vòng tròn bằng tre vót tròn
đường kính 45 cm. Phía trong có một vòng tròn nhỏ đường kính 20 cm được bịt
bằng giấy đỏ (chú ý cây tre phải còn ngọn tre và lá tre bay phấp phới như ngọn
lau giữa không trung), 6 quả còn hình thang vuông, làm bằng vải nhiều màu,
trong bọc cám hay cát (kích thước vừa trong lòng bàn tay), 4 góc của quả còn
đính 4 tua vải dài 50 cm (4 mầu) gọi là đuôi còn, đuôi còn có tác dụng định
hướng khi quả còn bay và là vật trang trí cho quả còn thêm đẹp. Trước khi vào
hội nén còn, cụ trưởng làng đồng thời là chủ tế của đình , đem 5 quả còn lên
đình thắp hương làm lễ, sau 3 hồi trống chiêng. Cụ chủ tế đem còn ra bãi ném
mỗi bên 1 quả (khoảng cách giữa 2 bên cách cột còn 15 m) và công bố hội ném còn
bắt đầu. Trai gái chia nhau mỗi bên 6 người tung quả còn cho nhau, vừa tung vừa
hát giao duyên. Phụ hoạ cùng nam nữ ném còn có tất cả mọi người dân trong làng
chia nhau đứng 2 bên tham dự, hoà chung tiếng hò reo, chiêng trống vang dội cả
1 vùng. Cứ như thế họ ném còn tiếp diễn, người đứng bên này ném cho người bên
kia, ai đỡ được còn ném tiếp, cứ thế quả còn được truyền cho nhau trong thời
gian không quy định. Nếu cứ ném thủng vòng tròn là được giải và hội ném còn kết
thúc bằng tiếng hò reo vang, tán thưởng của mọi người, chúc mừng người được
giải năm đó được nhiều may mắn và thần, thành hoàng làng ban lộc.
Diễn tấu cồng chiêng: Đánh cồng chiêng của đồng bào Mường
Tất Thắng cũng như đồng bào Mường các vùng Thanh Sơn, Yên Lập, Tân Sơn. Dàn
cồng cũng có dàn cồng đơn và dàn cồng kép; hình thức đánh cầm tay hoặc treo,
với 4 bài (còn được gọi là 4 điệu): "Đi đường"; " Bông trắng,
bông vàng"(hay còn được gọi là "chờ tôi với đợi tôi cùng"); "Chúc
rượu" và "Dã bạn".
Chàm đuống: Chàm đuống còn gọi là giã đuống hay đâm
đuống. Nghệ thuật giã đuống được khởi nguồn từ cuộc sống lao động của đồng bào
Mường huyện Thanh Sơn. Vì lẽ đó nên chúng ta gặp rất nhiều xã ở huyện Thanh Sơn
có cái tên xóm Chiềng, ví dụ: Chiềng Tất Thắng, Chiềng Cự Đồng, chiềng Cự
Thắng, chiềng Xuân Đài... và ở đâu có Mường gốc là ở đó có đuống.
Đuống chính là loại cối đài dùng để giã lúa, giã lúa là
nét sinh hoạt lao động thường nhật của đồng bào Mường. Từ giã lúa, giã đuống đã
được nâng lên trở thành nghệ thuật. Một đội giã đuống có thể từ 3 người, 5
người, 7 người, một người đứng cái còn lại đứng theo đôi đối diện. Người cầm
cái giã Đuống ở thế đảo tạo nên những nhịp rơi tự do làm cho bài. Giã đuống có
một tiếng tùng giã bằng đầu chày, ba tiếng đập ngang chày vào thành đuống tạo
nên ba tiếng cắc cắc cắc. Tiếng cắc này khi giã lúa làm cho những hạt gạo hoặc
hạt lúa dính ở đầu chày rơi xuống, những tiếng cắc này tạo nên sự thay đổi âm
sắc, biến điệu thang âm làm cho nhịp đuống rộn ràng hơn. Giã Đuống là màn diễn
tấu mang tính nghệ thuật cao nhưng hơi tốn sức lực, do vậy mỗi màn diễn tấu chỉ
kéo dài từ 8 đến 10 phút.
Hò đu: Hò đu trong hội làng Tất Thắng nói riêng và của
đồng bào dân tộc người Mường nói chung là một loại hát thơ lục bát, đây là loại
hò giao thế (đối đáp giao duyên) được tổ chức vào mùa xuân. Giữa một khoảng đất
rộng người ta dựng một cây đu được làm hoàn toàn bằng gỗ đó là loại gỗ tốt. Đu
được coi là sân khấu quay để cho các đôi trai gái thể hiện sự tài tình, tinh
tuý, linh hoạt trong lối hò giao thế. Hò đu được tổ chức vào mùa xuân trong cả
ngày và đêm, thường kéo dài hết mùa xuân, đó là lúc thời vụ nông nhàn.
Múa trống đu: Đua tiếng Mường nghĩa là đùa, múa trống đua
tức là trống đùa. Múa trống đu đầu tiên chỉ có trong gia đình từ gõ trống, múa
trống để dỗ con, xuất phát từ một tích trò khá li kỳ của đồng bào dân tộc
Mường, sau này múa trống đua dần dần nâng lên thành nghệ thuật. Những động tác
gõ trống, múa trống lăn trống, xoay trống, tung trống đã thể hiện tình cảm của
người cha trong nỗi nhớ vợ thương con. Múa trống đua đã trở thành niềm vui,
niềm an ủi, động viên, còn là nhịp cầu gắn bó giữa các thế hệ. Một đội múa
trống đua thường có: Một người đóng vai bố, một người đóng vai con, một người
gõ trống khẩu, một người gõ phách và một người thổi kèn sôna. Múa trống đua
được chia làm 3 phần: phần mở đầu giới thiệu trống đó chính là màn giáo đầu
trình diễn màn đùa trống (bố gõ con gõ); phần phát triển phô diễn nghệ thuật
tung trống, lăn trống, xoay trống, múa trống, đây là phần biểu diễn hay nhất
thể hiện trình độ nghệ thuật của hai cha con người gõ trống; phần thứ ba là màn
kết chào múa trống đua.
Lễ hạ điền: Lễ hạ điền được tiến hành vào ngày làm lễ do
ông thầy mo định. Có được ngày tốt rồi, nhà lang báo cho dân bản biết rồi vào
tối hôm trước lế, trai gái trẻ già kéo nhau đến nhà lang.
Khi làm lễ, ông mo khấn cầu:
"Thuận mưa, thuận gió
Cho ló (lúa) được mùa
Sây bông tốt trái
Bông con vừa bằng vòi hái
Bông cái vừa bằng đuôi con trâu
Lấy xôi đắp bờ ruộng sâu
Lấy chùi (đùi) gà đắp bờ ruộng cao
Ló nhiều làm giàu cho bản"
Sau đó, ông mo “rang” cho người già nghe, còn trai gái
hát ví, “chàm đuống” cho đến quá nửa đêm mới đi ngủ và ngủ ngay tại nhà lang.
Sáng ra trở dậy, họ cùng nhau đi nhổ mạ, cấy lúa cho nhà lang, rồi ăn uống. Từ
hôm sau toàn dân bản mới cấy ruộng nhà mình. Ở xã Tất Thắng, khi trời hạn hán,
làm lễ, thầy mo phải làm lễ cúng gọi vía lúa, lời skêu cầu thiết tha hơn:
"Lúa ở mường trời
Lời mường con kêu
Lúa về mường này làm giàu làm có
Bao nhiêu khốn khó bay về mường xa
Hỡi lúa nếp, lúa tẻ
Nghe lời mường ta kêu gọi
Bông con vừa bằng vòi hái
Bông cái vừa bằng đuôi con trâu
Lúa về đây làm giàu cho dân bản
Lúa về đây làm cho dân bản no lòng
Lúa ơi, lúa à..."
Lễ hội đình Cả, xóm Chiềng, xã Tất Thắng với những trò
chơi dân gian rất vui nhộn, lành mạnh sau những tháng ngày lao động mệt nhọc,
có dịp tụ hội để đua tài, được lưu truyền trong nền văn hoá dân gian của dân
tộc, ngày càng được phát huy trong nhận thức bảo tồn văn hoá dân tộc. Lễ hội
đình Cả giàu tính dân tộc, đậm nét truyền thống của địa phương, nên di tích có
tác dụng cho việc nghiên cứu lịch sử dân tộc, phong tục lễ hội của dân tộc
Mường. Phục vụ cho việc xây dựng nền văn hoá mới, làng xã văn hoá. Di tích lịch
sử có giá trị bảo lưu được tín ngưỡng vùng dân tộc miền núi Thanh Sơn, trong
kho tàng văn hoá dân gian vùng đất Tổ.